Đầu tư hay đầu cơ?
- Thứ sáu - 05/10/2007 15:51
- In ra
- Đóng cửa sổ này
Chiến lược đầu tư của nhiều DN đang phụ thuộc rất lớn vào tính ổn định và sự phát triển liên tục của khu vực bất động sản và thị trường cổ phiếu.
|
Mặc dù được ghi nhận là những DN hàng đầu Việt Nam với quy mô về tài sản, doanh thu, lao động lớn song tính cơ hội trong đầu tư lại rất mạnh. Thậm chí, không ít DN đã bành trướng một cách tích cực sang các lĩnh vực kinh doanh mới, như bất động sản, thị trường vốn để rồi luôn tính đếm các tài sản của mình theo độ lên xuống của thị trường cổ phiếu.
Thực ra, việc này không phải là vấn đề lớn nếu như các khoản lợi nhuận thu được sẽ được DN tái đầu tư vào các hoạt động kinh doanh hay các lĩnh vực chủ chốt có tiềm năng nhằm tăng năng suất, tạo việc làm. Nếu được vậy, ông Jonathan Pincus cho rằng, chiến lược này có thể mang lại lợi ích.
Tuy nhiên, mấu chốt nằm ở chỗ, chiến lược đầu tư của các DN này đang phụ thuộc rất lớn vào tính ổn định và sự phát triển liên tục của khu vực bất động sản và thị trường cổ phiếu. Việc quá dựa vào các khoản đầu tư mang tính đầu cơ, coi đó như nguồn lợi nhuận chủ đạo làm tăng mức độ rủi ro của chính các DN. Thậm chí, điều này sẽ có tác động lớn tới nền kinh tế khi Nhà nước có thể phải đứng ra cứu các DN lớn này trong trường hợp thị trường sụt giảm, nhằm giảm thiểu tác động xấu tới xã hội nói chung.
Phân tích về yếu tố này, ông Jonathan Pincus cho rằng, một phần là do tác động từ chính sách của Nhà nước tới các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Khi giá thuê đất quá cao thì việc khuyến khích đầu tư vào sản xuất sẽ không thể hấp dẫn bằng việc đầu cơ bất động sản, nhất là với các DN nhà nước vốn khá được ưu ái về điểm này. Cơ hội để đầu tư vào văn phòng, khách sạn cũng được coi là vàng trong thời buổi giá thuê văn phòng của Việt Nam thuộc diện đắt nhất khu vực. Đó có thể là lý do mà nhiều DN nổi tiếng của VN trong các lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu, hàng tiêu dùng đã mải đeo đuổi các dự án mới trong khi để lỏng lĩnh vực kinh doanh chủ chốt cho các đơn vị thành viên.
Ông Jonathan Pincus cũng lo ngại tới khả năng không sáng sủa khi các đơn vị thành viên, các công ty con không đủ lực gánh đỡ những thách thức trong cạnh tranh ngày càng gay gắt ở lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu. Điều đó sẽ ảnh hưởng rất lớn tới thương hiệu, hình ảnh của DN vốn không dễ dàng tạo dựng nên. Cũng cần phải nói rằng, trong danh sách 200 DN lớn nhất Việt Nam chỉ có 1 DN hoạt động trong lĩnh vực khách sạn, nhà hàng, 1 DN hoạt động trong lĩnh vực phát triển, cho thuê và kinh doanh bất động sản.
Ngược lại, với sự hấp dẫn của thị trường bất động sản, thị trường vốn nếu không có những cơ chế điều tiết phù hợp sẽ khiến các DN không an tâm với các chiến lược đầu tư dài hạn vào lĩnh vực sản xuất, chế tạo. Đa phần các DN sản xuất, chế tạo lớn của Việt Nam là các DN có vốn đầu tư nước ngoài. Trong số 110 DN lớn về chế tạo được xếp hạng thì DN có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 50% về số lượng, chiếm 2/3 về lao động, 60% về doanh thu và 45% về thuế đóng góp cho ngân sách. Có một số ngành như sản xuất dầu thực vật và động vật, chế biến thức ăn chăn nuôi, các sản phẩm làm từ bột… không có DN Việt Nam nào được xếp hạng là lớn.
Thực tế này khiến các chuyên gia kinh tế của UNDP đặt câu hỏi rằng, phải chăng chính sách của nhà nước chưa đủ hấp dẫn các DN đầu tư vào lĩnh vực sản xuất, chế tạo, công nghệ? Những lĩnh vực này luôn đòi hỏi sự tập trung nguồn vốn đầu tư lớn và dài hạn, khả năng tiếp thu công nghệ mới… Trong khi đó, các DN Việt Nam cho rằng, nguồn vốn trung hạn đối với họ không phải là vấn đề lớn, song vốn dài hạn vẫn đang là một khó khăn không nhỏ. Hơn nữa, lực lượng lao động đủ trình độ để vận hành hệ thống dây chuyền sản xuất công nghệ cao luôn trong tình trạng thiếu và yếu. Các DN chưa thể trông chờ vào hệ thống đào tạo của Nhà nước, song lại luôn phải đối mặt với việc bị thu hút chất xám, lao động tay nghề cao từ các đối thủ cạnh tranh. Phần việc này không thể chỉ DN giải quyết được, dù quy mô có lớn đến đâu.