BMSC

http://bmsc.com.vn


Lựa chọn nào giữa STB và ACB?

Việt Nam đang trong quá trình dịch chuyển bộ máy điều hành các doanh nghiệp theo hướng cổ phần hóa nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động cũng như tạo điều kiện hơn cho quá trình hội nhập. Hệ thống ngân hàng, một trong những “mạch máu” của thị trường tài chính, gắn liền với “sức khỏe” nền kinh tế quốc gia, chính vì thế rủi ro ngành luôn được các nhà hoạch định chính sách đặt mối quan tâm hàng đầu và luôn tìm cách hạn chế đến mức thấp nhất có thể.


                                                                                               Nguồn: Rueters

Đó cũng chính là lý do tại sao các ngân hàng thương mại Việt Nam khi cổ phần hóa đều tạo nên những cú “huých” cho hệ thống ngân hàng trong nước. Bởi thế cổ phiếu ngành ngân hàng luôn giành một ưu thế và luôn thu hút sự quan tâm của nhà đầu tư trong và ngoài nước. Sự kiện vượt room và hết room của hai cổ phiếu STB và ACB đã phần nào cho thấy sự kỳ vọng của NĐT nước ngoài  đối với ngành ngân hàng Việt Nam.

Một phần, dưới góc nhìn của NĐT, những rủi ro ngành dường như được chấp nhận như một rủi ro hệ thống, nó phụ thuộc vào chính sách và biến động chung của nền kinh tế dựa trên cơ chế thị trường. Vì lẽ đó cái mà nhà đầu tư quan tâm là rủi ro của từng công ty cũng như  trả lời cho họ 2 câu hỏi: đâu là cổ phiếu đựơc đánh giá cao trong thời gian qua và đâu là cổ phiếu ít gánh chịu rủi ro thị trường hơn trong hai cổ phiếu này.

Với nội dung đó, bài viết xin phép xoay quanh 2 câu hỏi và đưa ra một cái nhìn rõ hơn dựa trên những diễn biến thị trường 9 tháng đầu năm 2007.  (Bài viết dựa trên số liệu điều chỉnh 9 tháng đầu năm 2007 và bỏ qua những thông tin về tách, thưởng của hai cổ phiếu).

 

Theo qui định về mức biến động giá của Hastc với biên độ +/-10%, Hose với biên độ +/-5% trong mỗi ngày giao dịch, do đó lợi nhuận đầu tư tính theo ngày phải nằm trong giới hạn này. Trong tập dữ liệu gần 200 quan sát cho thấy những biến động của hai cổ phiểu phiếu STB và ACB là khá khác biệt. Nhà đầu tư có vẻ e dè hơn khi lựa chọn ACB trong mỗi quyết định mua và bán. Mặc dù biên độ dao động ACB lớn nhưng nó dao động thường xuyên nhất ở mức +/-2%.

Với mức độ biến động này, nhà đầu tư thường ít chịu thua lỗ hơn trong mỗi ngày giao dịch hay nói cách khác những thông tin của ACB không ảnh hưởng thường xuyên đến thị trường nên không làm ảnh hưởng đến động thái của nhà đầu tư (KLGD trung bình gần 140.000 Cp/ngày), những nhà đầu tư “lướt sóng” thường không chọn những cổ phiếu dạng này. Tại các nước phát triển, những cổ phiếu ít biến động thường là cổ phiếu của những doanh nghiệp sung mãn và những nhà đầu tư ngắn hạn thường ít quan tâm đến cổ phiếu của doanh nghiệp đó. Mặc dù ACB cũng có những phiên biến động mạnh. Tuy nhiên, sự biến động đó chỉ hạn chế ở một vài phiên trong giai đoạn 9 tháng đầu năm.

Giới phân tích cho rằng sự biến động của ACB trong thời gian qua một phần là do lực của thị trường, của nhà đầu tư trong nước bị chi phối bởi những cổ phiếu mới sau khi room của nhà đầu tư nước ngoài đạt đến mức tối đa. Mặt khác, những chính sách của ACB trong cấu trúc vốn cùng với việc chú trọng phát hành trái phiếu chuyển đổi dài hạn đã phần nào làm giảm tính hấp dẫn của cổ phiếu trong giai đoạn này. Trong khi đó STB có những hướng đi khác hẳn ACB và đã thật sự thu hút nhà đầu tư trong những phiên giao dịch qua bằng chứng là STB luôn dẫn vị trí dẫn đầu cổ phiếu có khối lượng giao dịch nhiều nhất trong ngày (KLGD trung bình hơn 1,3 triệu cp/ngày). Biên độ dao động 5% đã góp phần làm cho nhà đầu tư càng linh hoạt hơn trong mỗi lệnh đặt mua và bán. Những biến động của STB phân tán đều hơn. Những cổ phiếu dạng này lại thường hấp dẫn với nhà đầu tư khi có những chiến lược đầu tư kết hợp.

Những cổ phiếu hấp dẫn thường là những cổ phiếu có mức độ biến động mạnh. Tuy nhiên, nó còn phụ thuộc vào “khẩu vị” của nhà đầu tư. Những nhà đầu tư không thích rủi ro thường chọn những cổ phiếu có mức độ ổn định cao hơn so với những cổ phiếu dạng này. Những biến động này chỉ là cơ sở cho thấy mức độ dao động trên giá thị trường của cổ phiếu đó nó đo lường sự quan tâm của nhà đầu tư trong mỗi phiên giao dịch. Để phản ánh được những rủi ro của cổ phiếu này nhà đầu tư có thể nhìn nhận ở chỉ số đo lường rủi ro thị trường của chứng khoán. Hay nói cách khác, là đo lường độ nhạy cảm của chứng khoán đó với các biến động của thị trường được gọi là hệ số Beta. Giá của hai cổ phiếu này là nguồn dữ liệu cho việc tính toán hệ số nhạy cảm này.

Mỗi mức giá giao dịch thể hiện một kỳ vọng của nhà đầu tư. Khi những kỳ vọng này được đặt trong một giai đoạn thị trường, nó sẽ thể hiện được rủi ro của cổ phiếu này cao hơn hay thấp hơn so với cổ phiếu khác. Tuy nhiên do ACB và STB được niêm yết trên hai sàn khác nhau nên việc tính toán này chỉ là cơ sở để đánh giá độ nhạy cảm của cổ phiếu với thị trường đó. Nhưng với mức độ tương quan của hai thị trường này càng cao thì những so sánh giữa hai cổ phiếu này càng ý nghĩa. Tương quan nói lên mối quan hệ cùng hay ngược chiều của lợi nhuận hai cổ phiếu theo một khoảng thời gian. Nó biến động trong khoảng từ -1 đến 1. Nếu hệ số tương quan càng gần 1 thì lợi nhuận hai cổ phiếu càng di chuyển theo hướng giống nhau, ngược lại tiến tới -1 thì lợi nhuận hai cổ phiếu sẽ ngược hướng và nếu hệ số này bằng không thì lợi nhuận hai cổ phiếu này độc lập nhau.

Thực tế tương quan giữa hai thị trường này dừng lại ở mức gần 79% - thể hiện mức độ gắn chặt của hai chỉ số VN-Index và Hastc-Index hay nói cách khác khi VN-Index tăng, ở một mức độ nào đó nó cũng kéo theo sự gia tăng của chỉ số Hastc-Index, do đó khi xem xét độ nhạy cảm của cổ phiếu STB với VN-Index thì cũng hình dung một phần nào giữa STB với Hastc-Index và ngược lại là ACB với VN-Index. Quay trở lại hệ số beta, số liệu được tính toán trong 9 tháng của STB và VN-Index là 0.8, cho biết rằng lợi nhuận cổ phiếu STB biến động bằng 0.8 lần lợi nhuận thị trường, nghĩa là khi nền kinh tế biến động tốt thì lợi nhuận cổ phiếu STB gần gần với lợi nhuận thị trường, và ngược lại khi nền kinh tế xấu đi thì lợi nhuận cổ phiếu này sẽ giảm ít hơn lợi nhuận thị trường.

Cũng bằng cách lập luận đó thì hệ số này ở ACB và Hastc-Index lại ngạc nhiên hơn, beta  là 1.03 nó thể hiện lợi nhuận gia tăng nhanh hơn thị trường khi chỉ số Hastc-Index tăng vọt và sẽ giảm nhiều hơn khi thị trường có những tín hiệu điều chỉnh. Từ hai chỉ số này có thể cho nhà đầu tư một cái nhìn sâu hơn trong giai đoạn vừa qua. Và thực tế đã chứng minh điều này trong 9 tháng đầu năm khi chỉ số VN-Index tăng 41,23% trong khi đó STB chỉ tăng 28,03%. Với ACB và Hastc-Index thì là 28.03% và 35.44%. Mức độ sụt giảm này càng khác biệt giữa cổ phiếu với chỉ số thị trường thì nó sẽ có mức tương quan càng bé và ngược lại. Tùy theo chiến lược của nhà đầu tư và theo từng giai đoạn nhà đầu tư có thể chọn lựa cho mình những cổ phiếu có rủi ro và tương quan phù hợp. Như việc một nhà đầu tư chọn cổ phiếu có tương quan yếu trong giai đoạn thị trường điều chỉnh và lựa chọn cổ phiếu có tương quan mạnh trong thị trường sôi động là một lựa chọn thông minh.

Cũng trong giai đoạn này tương quan giữa STB và VN-Index là khá yếu, chỉ dừng lại ở mức gần 57% trong khi đó con số này ở ACB và Hastc-Index là rất cao (hơn 95%) với mức này có thể  nói nhiều nhà đầu tư nắm giữ ACB khi thị trường phục hồi đã thật sự giành được chiến thắng. Tuy nhiên những kỳ vọng của nhà đầu tư mới thật sự là kim chỉ nam cho giá cổ phiếu thị trường. Theo lý thuyết Bước Đi Ngẫu Nhiên thì sự biến động giá chứng khoán là ngẫu nhiên và các thay đổi trong giá chứng khoán là tác động lẫn nhau và các khả năng thay đổi có thể xuất hiện với cùng một xác suất như nhau, qua thời gian, giá chứng khoán dường như luôn có xu hướng tăng nhưng theo lý thuyết Dow trong phân tích kỹ thuật thì quan điểm lại hoàn toàn trái ngược. Dow cho rằng tương lai sẽ lặp lại những gì đã xảy ra, nhà đầu tư thường nghĩ về những gì họ đã làm trong quá khứ. Và đây chính là một trong những điều thị trường Việt Nam đang muốn được chứng minh. Nếu Dow đúng thì những lựa chọn cổ phiếu theo tính chu kỳ dựa vào rủi ro, tương quan và lợi nhuận trong từng giai đoạn sẽ cho nhà đầu tư có những bước đi chính xác hơn mà không phải là những bước đi ngẫu nhiên trong thị trường tài chính Việt Nam.

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây