Để tạo dựng lòng tin vào chính sách tiền tệ và đồng VN thì phải bảo đảm lãi suất thực dương. Thực tế, từ năm 2004 đến nay, lãi suất luôn thực âm. Người dân mất lòng tin vào nội tệ, chuyển sang các hình thức đầu cơ khác, làm cho giá cả càng leo thang.
Chúng ta cũng cần chấp nhận VNĐ lên giá một chút so với USD. Chính phủ đang băn khoăn về tác động phụ đối với các doanh nghiệp xuất khẩu khi VNĐ lên giá. Tôi cho rằng tác động tiêu cực này trước mắt không đáng ngại lắm vì hiện tại, giá các sản phẩm xuất khẩu trên thị trường thế giới đang cao và các doanh nghiệp xuất khẩu có thể chia sẻ khó khăn vì lợi ích chung của cả nền kinh tế.
Việc xử lý tỉ giá hối đoái đang có nhiều mâu thuẫn, lúng túng. Ngân hàng Nhà nước (NHNN) không muốn để VNĐ lên giá mạnh so với USD, song mặt khác lại không dám mua ngoại tệ để giữ tỉ giá ở mức mục tiêu vì sợ tiền ra lưu thông quá lớn, đẩy lạm phát dâng lên. Thực ra, NHNN vẫn có thể mua ngoại tệ bình thường nhưng sau đó phải thực hiện ngay hoạt động trung hòa, thông qua bán trái phiếu trên thị trường mở, để rút tiền về. Muốn kiểm soát cung tiền thì phải thả nổi lãi suất. Ngược lại, muốn kiểm soát lãi suất phải thả nổi cung tiền. Vì NHNN muốn kiểm soát cả cung tiền và lãi suất nên trong thực tế, cả hai thông thường đều ở xa mức mục tiêu. Hiện tại, NHNN vẫn có thể dễ dàng bán trái phiếu để rút tiền về, nhưng phải chấp nhận lãi suất thị trường. Chúng ta phải chấp nhận lãi suất cao trước mắt. Khi lạm phát giảm, lãi suất sẽ tự động giảm.
Lạm phát quá thấp và quá cao đều không có lợi cho tăng trưởng kinh tế. Để bảo đảm tăng trưởng bền vững, lạm phát ở VN chỉ nên duy trì trong phạm vi 5%-8%. Năm nay, Chính phủ có tham vọng tăng trưởng 9% là không thực tế. Cần chấp nhận tăng trưởng thấp hơn để kiềm chế lạm phát. Nếu quả thật chúng ta muốn đạt tăng trưởng 9% trong năm nay thì cái giá tất yếu phải trả là lạm phát cao hơn năm trước và ảnh hưởng xấu cho những năm sau. Thế nên, tốc độ tăng trưởng GDP của VN chỉ nên duy trì khoảng 8% để có thể kiểm soát được lạm phát ở mức hợp lý.
Kỳ vọng vào quyết tâm của Chính phủ Chống lạm phát, đừng bỏ qua yếu tố kỳ vọng. Chúng ta đã giảm đáng kể lạm phát từ 394% năm 1988 xuống 34,7% năm 1989, trong khi tăng trưởng cùng giai đoạn chỉ giảm từ 6% xuống 4,7%. Yếu tố nào tạo nên sự thành công đó? Câu trả lời là chính sách. Chính sách đã làm cho người dân tin rằng lạm phát cao sẽ được chặn đứng. Khi đó, người bán sẽ không tăng giá và người mua sẽ không chấp nhận giá cao. Khi tất cả mọi người cùng hành động như vậy thì giá sẽ không thể tăng tốc. Do vậy, trước hết Chính phủ phải tỏ ra rất quyết tâm trong việc chống lạm phát và coi đây là ưu tiên hàng đầu, sẵn sàng chấp nhận hy sinh các mục tiêu khác một chút để tập trung chống lạm phát. |
TS Võ Trí Thành, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương: Ổn định kinh tế vĩ mô thay vì hãm tăng giá
Ông Huỳnh Thế Du, chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright: Xuất khẩu thật sự không quá bi đát
Giả sử đồng tiền tăng giá 5% thì khi quy ra tiền đồng của gần 60 tỉ USD xuất khẩu theo kế hoạch năm 2008 thì doanh thu sẽ giảm 48.000 tỉ đồng, tương đương 3,5% GDP - đây là một số tiền lớn. Tuy nhiên, nếu khoảng 50% giá trị xuất khẩu là nguyên liệu đầu vào từ nhập khẩu thì mức giảm sút thu nhập chỉ còn một nửa con số trên. Nếu tính các mặt hàng xuất khẩu thâm dụng lao động chính như dệt may, da giày... với hơn 70% cơ cấu giá thành là nhập khẩu, mức giảm sút thu nhập do tỉ giá chỉ là 1,5%. Ngoài ra, thời gian qua, giá nhiều mặt hàng xuất khẩu đã tăng vọt như gạo tăng 50%, cà phê và hồ tiêu tăng gấp hai lần so với cùng kỳ năm ngoái, giá dầu thô cũng tăng từng ngày... Những mức tăng này cao hơn rất nhiều so với lạm phát và đồng tiền tăng giá. T.H - D.Q ghi |
PGS-TS Nguyễn Văn Công (ĐH Kinh tế Quốc dân)