Ngân hàng Nhà nước "trì hoãn" bỏ trần lãi suất?

Ông Lê Xuân Nghĩa, Vụ trưởng Vụ Chiến lược Phát triển Ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) VN chia sẻ với báo giới xung quanh vấn đề “trì hoãn” đưa ra hướng dẫn thực hiện bỏ trần lãi suất tiền gửi của NHNN theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.

Chung sân mà không cân sức

Ông có bình luận gì về chủ trương duy trì trần lãi suất 11% của Hiệp hội ngân hàng Việt Nam (VNBA) ?

VNBA kêu gọi duy trì trần lãi suất là có mong muốn lãi suất sẽ ở mức thấp hơn một chút

Tuy nhiên, lưu ý một điều NHNN không thể thực hiện đồng thời một lúc 2 mục tiêu: thắt chặt tiền tệ và duy trì mức lãi suất thấp. Không thể nào bắt buộc các ngân hàng lớn, bé có mức độ rủi ro  khác nhau “chịu” cùng mức  lãi suất huy động.

Theo tôi, chủ trương bỏ trần lãi suất của Chính phủ là đúng đắn. Hiện, NHNN còn đang đắn đo, suy xét, tuy nhiên rồi cũng sẽ gỡ bỏ trần lãi suất này thôi. Tuy vậy, ý của NHNN là muốn duy trì mức trần lãi suất này cho đến hết tháng 6 nhằm chờ tình hình dễ thở hơn.

Đấy là suy nghĩ của NHNN, nhưng thực tế việc tiếp tục duy trì trần lãi suất chưa chắc đã đem lại sự yên ổn, dễ thở hơn cho thị trường. Lý do là các ngân hàng nhỏ mà thiếu tính thanh khoản quá sẽ dẫn đến đổ vỡ. Sẽ rất nguy hiểm nếu việc đổ vỡ của các ngân hàng nhỏ mang tính dây chuyền.

Hiện, chúng ta phải quán triệt tư tưởng, chúng ta chống lạm phát trong tình hình khủng hoảng kinh tế toàn cầu có thể nổ ra. Nếu để các ngân hàng mất thanh khoản thì hết thuốc chữa.

Nếu ta coi lạm phát nguy hiểm như lượng cholesteron trong máu, thì tính thanh khoản của các ngân hàng lại là máu, nếu để máu cạn thì không thể nói đến colestoron có trong đó nhiều hay ít.

Nhiều người lo sợ rằng, việc dỡ trần lãi suất sẽ làm tái diễn cuộc đua lãi suất giữa các ngân hàng như thời gian vừa qua?

Đừng nghĩ rằng gỡ trần lãi suất thì các ngân hàng sẽ đua nhau tăng lãi suất lên cao. Lãi suất có thể tăng lên đến một mức độ nào đó sẽ phải dừng lại.

Tôi ví dụ, bỏ trần, lãi suất huy động có thể tăng tới 12%/năm, thậm chí cao hơn mức đó. Nhưng rồi nó sẽ phải đứng lại theo quy luật cung cầu. Vì đúng theo quy luật thì giá tăng cao người mua sẽ ít đi.

Câu chuyện chạy đua tăng lãi suất không nên coi là lỗi của các ngân hàng thương mại. Chỉ nên coi đó là nhu cầu về vốn của nền kinh tế và mức độ mở cho nhu cầu được khả năng tới đâu của NHNN. Cung ứng tiền là việc của NHNN, không cung ứng tiền ra thị trường đủ thì dẫn đến thiếu tiền, đương nhiên lãi suất sẽ phải tăng lên.

Tôi nghĩ, cần phải mở lối thoát cho các ngân hàng, nên thực hiện các biện pháp mang tính thị trường hơn thay vì mãi dùng các biện pháp hành chính như vừa qua.

Tiền trong dân đã cạn?

Hiện nay, đang có tình trạng lượng tiền gửi tại các ngân hàng giảm mạnh, theo ông phải chăng lượng tiền trong dân đã cạn?

Đúng là lượng tiền trong dân không còn nhiều. Chúng ta cứ nhìn vào thị trường chứng khoán thì biết là tiền đầu tư thực, dân không có nhiều.

Vài tháng đầu năm, lượng tiền gửi tại các ngân hàng tăng chậm chủ yếu là do các doanh nghiệp rút tiền về. Còn lý do rút tiền về thì có nhiều, có thể rút về để phục vụ sản xuất, hoặc có thể là cho vay lẫn nhau như các thông tin có đề cập đến.

Thực chất việc các doanh nghiệp có cho nhau vay tiền về lý thuyết thì lượng tiền đó dù được gửi ở các ngân hàng thì cũng là để cho các doanh nghiệp vay. Vấn đề cần bàn ở đây là, nếu để tiền gửi tại các ngân hàng, các ngân hàng họ phân bố vốn chuyên nghiệp hơn, các dự án cho vay cũng được thẩm định cẩn thận hơn, do đó việc quản lý rủi ro được đảm bảo hơn, phân bổ vốn hiệu quả hơn.

Còn nếu để các doanh nghiệp tự cho vay lẫn nhau sẽ không thẩm định được dự án một cách chuyên nghiệp, hoặc giả sẽ có tình trạng cho vay giữa nội bộ tập đoàn với nhau thì độ rủi ro sẽ lớn hơn rất nhiều.

Ở các nước hiện tượng các doanh nghiệp cho vay thương mại lẫn nhau thường xảy ra, ở Việt Nam trào lưu mới tín dụng thương mại cũng đã đang tăng lên (tín dụng không qua ngân hàng, doanh nghiệp tự cho vay lẫn nhau).

Có thông tin là mức dư nợ tại một số ngân hàng lên đến 250%, ông có nghĩ rằng điều đó là đáng báo động?

Con số này theo tôi là không chuẩn. Tại sao họ huy động được một mà cho vay tới tận 2,5 lần. Lý do là phần tăng thêm đó là khoản vay từ các ngân hàng lớn.

Lâu nay chúng ta quan niệm thị trường liên ngân hàng là thị trường tiền tệ ngắn hạn, không thể dùng nó để cho vay các doanh nghiệp được. Thực tế thì không phải vậy.

Thị trường liên ngân hàng cũng có hai loại: thị trường cho vay chúng ta thường nhắc tới là qua đêm mang tính ngắn hạn và một loại nữa không hay được nhắc đến là cho vay kỳ hạn (có thể 1, 3, 6 tháng, thậm chí 1 năm). Về cơ bản thì những khoản vay kỳ hạn như thế này chẳng khác là huy động từ trong dân.

Về vấn đề này, nhiều quan chức NHNN cũng không am hiểu một cách tường tận, đánh giá sai về việc này và cho rằng việc huy động tiền từ thị trường liên ngân hàng cho vay ngoài doanh nghiệp là rất nguy hiểm. Nhưng nếu phân tích như trên thì không có gì đáng lo về việc này cả.

Theo phân tích từ những con số từ thị trường chứng khoán, thị trường lãi suất… ông có nghĩ rằng đã có dấu hiệu khủng hoảng nền kinh tế?

 Những con số đó không thực sự đáng lo, vẫn có thể trong tầm kiểm soát của Chính phủ.

Quan trọng lúc này là chúng ta không nên quá nôn nóng về chống lạm phát để lại tiếp tục xiết chặt tiền tệ quá mức làm tính thanh khoản của các ngân hàng thương mại yếu đi và rủi ro tăng lên.

Chúng ta nên chấp nhận chống lạm phát từ từ. Ví dụ, tháng 2, tháng 3 chỉ số lạm phát giảm đi một chút, tháng 4 lại tăng lên, tháng 5 giảm xuống… chỉ cần đồ thị của nó là hình sin đi xuống là ổn.

Quan điểm là chúng ta chống lạm phát trong điều kiện khủng hoảng kinh tế thế giới có thể xảy ra vì vậy vừa chống lạm phát vừa chống khủng hoảng. Vì thế cần đưa ra nhiệm vụ vừa chống lạm phát vừa bảo vệ bằng được tính thanh khoản của các ngân hàng thương mại.

Nếu NHNN và Chính phủ có quan điểm như thế thì có thể qua được thời kỳ khó khăn này. Còn nếu vẫn cứ tiếp tục nôn nóng, sốt ruột muốn làm nhanh, muốn đưa lạm phát về dưới mức năm ngoái, hoặc tín dụng năm ngoái là 54%, giờ phải đưa bằng được về  30% thì sẽ rất khó khăn cho thanh khoản của các ngân hàng thương mại, do dư chấn tăng trưởng tín dụng năm ngoái bây giờ mới vào cuộc.

Nhưng nếu tình trạng vốn ngoại vẫn tiếp tục vào nhiều như năm ngoái, liệu dự trữ ngoại tệ của ta có tăng lên?

Lượng dự trữ năm nay dự đoán sẽ không nhiều như năm ngoái.

Năm ngoái NHNN mua vào khoảng 10,1 tỷ USD. Năm nay dự kiến thấp hơn nhiều, thậm chí cả tháng vừa rồi NHNN phải bán ra lượng ngoại tệ lớn. Do khối lượng ngoại tệ phải mua vào như năm ngoái là không có.

Đầu năm chúng ta dự kiến đầu mua vào 6 tỷ USD, nhưng hiện tại ngay cả 6 tỷ có lẽ cũng không đạt được, lượng dự trữ sẽ không nhiều như năm ngoái

Xin cảm ơn ông!

Minh Yến

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây